Tuệ Tĩnh (1330-?) được phong là ông tổ ngành dược VN và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền VN. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa tư giác y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học VN.
Nếu những kết quả nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học VN
sau này không đưa thêm bằng chứng gì mới thì truyền thuyết địa phương và
những công trình nghiên cứu chuyên môn khác cho phép khẳng định Tuệ
Tĩnh là một nhân vật đời Trần. Ông chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở
làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh
Hải Dương ngày nay).
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các
nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi,
ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm
quan mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu
cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Năm 55 tuổi (1385), Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều
đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua
Minh phong là Đại y Thiền sư, mất ở bên ấy, không rõ năm nào. Bia văn
chỉ làng Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm 1697) cùng các tư liệu
khác ở địa phương đều ghi như vậy.
Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề
thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian,
huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ
truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tư giác y thư
(2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc
nam, viết bằng thơ Đường luật (nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị cũng
dùng quốc ngữ.
Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác
phẩm của ông thì Tuệ Tĩnh không những có vị trí trong lịch sử y học mà
cả trong lịch sử văn học nữa.
Từ bao đời nay, giới y học VN và nhân dân đều công nhận
Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc
lập, tự chủ, sát với thực tế VN. Câu nói của ông: "Thuốc Nam Việt chữa
người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức sâu sắc về quan hệ giữa con người
và sinh cảnh, đồng thời cũng tiêu biểu cho ý thức độc lập tự chủ.
Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng không
chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những sách nước ngoài. Chẳng hạn,
ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước
tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù
chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để
chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v.
Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa
bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa
bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30
năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các
chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh
được chữa bằng 3.873 phương thuốc.
Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân
gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác
dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp
dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ:
Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần.
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.
Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc.
Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc
VN. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải
Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng, có
tượng Tuệ Tĩnh. Câu đối thờ ông ở đền Bia viết, dịch nghĩa như sau:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang.
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang.
Giáo sư VŨ NGỌC KHÁNH - ĐỖ THỊ HẢO (Báo Nhân Dân)
Chúc mừng ngày thầy thuốc Việt Nam nhé em
Trả lờiXóaEm cám ơn chị nhiều! :D
Xóawww.biquyetsongkhoe.vn
Trả lờiXóa